Chân Phước Phanxicô Palau được sinh vào ngày 29 tháng 12 năm 1811 tại thị trấn Aitona, tỉnh Lerida, thuộc vùng tự trị Cataluña, miền đông bắc Tây Ban Nha.
Ngài mất tại Tarragona vào ngày 20 tháng 3 năm 1872 và được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Chân Phước vào ngày 24 tháng 4 năm 1980.
Năm 17 tuổi ( 1828), ngài quyết định nội trú chủng viện , ngài bắt đầu suy nghĩ tới chức linh mục. Ngài cho rằng , chỉ trong Thiên Chúa ngài mới tìm thấy được vẻ đẹp để lắp đầy được khả năng yêu mến vô tận- cái khả năng mà chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng Ngài.
Cậu chủng sinh trẻ tuổi yêu thích cha Jose de santa Concordia, một tu sĩ Cát Minh Về Nguồn ở Lleida. Dưới sự linh hướng của cha Jose và trong chiệm nghiệm , cậu nhận thấy thánh nữ Terêxa Giêsu đang mời gọi cậu trở thành một tu sĩ Cát Minh.
Ngày 23-10-1832, ngài được lãnh tu phục trong tu viện Cát Minh Chân Trần ở Barcelona, tự xưng là Phanxicô- của Chúa Giêsu- Mẹ Maria- và Thánh Giuse. Vào tháng 11 năm 1833, thầy tuyên khấn trọng thể, cam kết sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục cho đến chết.
Ngày 25 tháng 7 năm 1835, tu viện Thánh Giuse ở Barcelona bị đốt cháy và các tu sĩ bị đuổi ra khỏi đan viện, trong số đó có Phanxicô Palau.
Ngài được Thụ phong linh mục ở Barbastro năm 1836 ngay giữa hoàn cảnh chính quyền đảng Tự Do nghiên cấm việc truyền chức linh mục. Sau đó, ngài bắt đầu dẫn thân phục vụ ở Cataluña.
Các biến cố ở quê hương đã đẩy ngài phải sống lưu vong ở Pháp (1840-1851), nơi ngài xen kẽ công việc tông đồ với những giai đoạn sống cô độc căng thẳng. Trong thời gian đó ngài đã viết một số tác phẩm, hướng dẫn và đồng hành một nhóm phụ nữ trẻ ở Đức Mẹ Livron, Giáo phận Montauban.
Vì những biến cố chính trị của nước Tây Ban Nha thời bấy giờ mà Ngài buộc phải sống kiếp lưu đày và ở ngoài Đan Viện. Năm 1851, Ngài được trở về Tây Ban Nha và ngay sau đó Ngài đã thành lập “Trường Nhân Đức” ở Barcelona với nhiệm vụ là dạy giáo lý cho người lớn. Tuy nhiên vào năm 1854, tình hình chính trị ở Barcelona lại bất ổn. Ngôi Trường buộc phải đóng cửa và Ngài bị lưu đày thêm một lần nữa tới đảo Ibiza từ năm 1854-1860. Sau thời lưu đày, Ngài thành lập Dòng Các Anh Em và Các Chị Em Cát Minh, tiền thân của Dòng Cát Minh Truyền Giáo và Dòng Cát Minh Têrêxa Truyền Giáo.
Mặc dầu không được sống trong môi trường đan viện nhưng Chân Phước Phanxicô Palau rất yêu mến và trung thành với đời sống cầu nguyện. Ngài cũng có lòng yêu mến Đức Mẹ và Giáo Hội cách đặc biệt. Đi tới đâu Ngài cũng thúc giục tín hữu phải có lòng sùng kính Đức Mẹ và yêu mến Giáo Hội. Đối với Ngài, Giáo Hội không phải là một tổ chức xã hội bình thường nhưng là một mầu nhiệm phải được sống như một chân lý đức tin.
Con người của cha Palau đã được tôi luyện trong cuộc đấu tranh, trong một cuộc tìm kiếm lâu dài và đau đớn kéo dài gần như cả cuộc đời. Ngài đã chiến đấu vì HÒA BÌNH giữa những người đang đấu tranh trong các cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn; để SỰ THẬT đánh tan sự ngu dốt, vì TỰ DO ở Tây Ban Nha tự cho mình là “tự do” và đàn áp Giáo hội.
Ngài tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề của thời đại và dấn thân triệt để vào ơn gọi Cát Minh và linh mục. Chìa khóa cho toàn bộ đời sống thiêng liêng và sứ vụ phục vụ giáo hội của ngài là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô hằng sống trong Nhiệm thể của Người, Giáo hội, nghĩa là Chúa Giêsu là Đầu và mọi người là chi thể được gắn kết trong sự hiệp thông.
Ngài đã tìm kiếm trong chiêm nghiệm để đối thoại với “Người yêu dấu” của mình,và dâng hiến trọn bản thân để phục vụ Giáo Hội bằng những phương thức khác nhau mà lòng nhiệt thành gợi cho ngài: rao giảng, tổ chức dạy giáo lý, trừ quỷ, cầm bút như một nhà văn và nhà báo.
Các hoạt động tông đồ đa dạng nhất đã tìm thấy sự thống nhất trong lý tưởng Ngài thúc đẩy con cái của ngài : YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ GIÁO HỘI nơi người nghèo, người bệnh, trẻ em, thanh thiếu niên và các gia đình.
Tinh thần truyền giáo và giáo hội của Dòng Cát Minh Têrêxa Truyền Giáo (CMT) cũng như cha Palau , với một lòng yêu mến nồng nàn dành cho Hội Thánh đã được đơm hoa kết trái.
Các nữ tu Cát Minh Têrêxa Truyền Giáo là hiện thân tinh thần của cha Palau , làm cho Ngài sống mãi giữa chúng ta.